Chương 4
Edit & beta: Cún
Lần trước, chúng ta đã nói đến chuyện Kim Thập Tam đi theo cha nuôi Kim Bất Hoán cùng mọi người vào rừng đặt bẫy, nghỉ đêm ở cửa gió trong rừng. Nửa đêm, hắn bị tiếng khóc của trẻ sơ sinh trong rừng đánh thức. Kim Thập Tam gan dạ, một mình vào rừng tìm kiếm nơi phát ra tiếng khóc, không ngờ lại chứng kiến cảnh một đàn hươu tự động tiến đến để một con dị thú chín đuôi hút máu. Nhưng khi đang nhìn lén, hắn lại bị con dị thú phát hiện và tấn công. Một luồng sức mạnh kỳ dị khiến Kim Thập Tam mất đi thần trí, cơ thể bị đông cứng, không thể cử động, chỉ có thể trơ mắt nhìn con dị thú lao đến.
Kim Thập Tam thầm than rằng mạng mình đã hết, bỗng nghe thấy một tiếng quát trầm thấp: “Nghiệt súc, không được làm hại người!” Trước mắt hắn loé lên một bóng xanh lao vụt qua tai mình rồi biến mất.
Thần trí Kim Thập Tam dần dần hồi phục, cơ thể cũng không còn lạnh buốt như vừa rồi. Hắn quay đầu lại, chỉ thấy một ông lão dẫn theo một bé trai khoảng bốn, năm tuổi đang đứng phía sau.
Ông lão tóc bạc phơ nhưng làn da lại hồng hào, nhẵn nhụi, ít nếp nhăn, trông không rõ đã bao nhiêu tuổi. Cậu bé búi tóc cao, mặt mày trắng trẻo đáng yêu. Kỳ lạ là cả hai người họ đều ăn mặc rất mỏng manh, không phù hợp với tiết trời lạnh lẽo của núi Trường Bạch. Trang phục của họ cũng không giống người thời nay mà trông giống như những nhân vật cổ trang mà Kim Thập Tam từng thấy trên sân khấu kịch.
Ông lão ôn tồn hỏi: “Tiểu huynh đệ, sao lại đến khu rừng này vào lúc này?”
Kim Thập Tam vẫn còn kinh hãi, ấp úng không biết trả lời thế nào, lắp bắp nói: “Tôi… tôi… không phải…”
Cậu bé kia cười khúc khích, nói: “Cha ơi, hắn bị… bị… bị cà lăm, nói chuyện không trôi chảy.”
Kim Thập Tam trừng mắt nhìn nó, nói: “Nhóc mới bị cà lăm ấy!” rồi quay sang ông lão chắp tay thi lễ: “Lão bá, tôi đến đây để đặt bẫy trong rừng. Ban đêm nghe thấy tiếng trẻ con khóc, thấy lạ nên lần theo tiếng mà đến, không ngờ lại gặp phải con quái vật đó.”
Ông lão thở dài: “Con súc sinh này từ khi bị người ta thả ra đã lang thang khắp khu rừng này. May mà ta đã phong bế nó lại, không thì đã đi khắp nơi gây hoạ cho người và gia súc. Nhưng chim thú trong khu rừng này thì đã gặp tai ương rồi! Haizz, đây cũng là kiếp số mà!”
Kim Thập Tam ngạc nhiên hỏi: “Lão bá, đây là loài quái vật gì? Hai vị là ai?”
Ông lão không trả lời mà chỉ nói: “Mau quay về đi, tiểu huynh đệ. Nhớ rằng sau này không được ở lại trong rừng sau nửa đêm. Nếu còn nghe thấy tiếng khóc của con thú này, hãy dùng cỏ Ula nhét vào tai, sẽ không bị nó mê hoặc.” Ông nắm tay cậu bé quay người định rời đi.
Cậu bé nói với ông lão: “Cha à, trên người hắn có năm đồng tiền Đế…” Ông lão ngắt lời nó, nói: “Ta biết rồi, cậu ta cũng là người có duyên! Haizz, “Ngũ Đế Tiền tụ, Sơn Thần xuất thế”, lại thêm một kiếp nạn nữa rồi…”
Kim Thập Tam nghe mà mơ hồ khó hiểu, liền hỏi: “Lão bá, ngài nói ‘xuất thế’ là sao? Còn ‘kiếp nạn’ lại là gì nữa vậy?” Nhưng ông lão và cậu bé không trả lời nữa, cứ thế nắm tay nhau rảo bước.
Kim Thập Tam vội đuổi theo gọi: “Lão bá, đợi đã! Tôi bị lạc đường rồi, làm sao để trở về?” Hắn ra sức đuổi theo, nhưng rõ ràng thấy ông lão và cậu bé chỉ đi chậm rãi phía trước mà mãi không thể bắt kịp. Đuổi một lúc, hắn kinh ngạc phát hiện bóng dáng họ ngày càng mờ nhạt rồi biến mất.
Kim Thập Tam hoảng hốt, vội hét lên: “Này! Này!” Bỗng nhiên thấy đau nhói ở vành tai, mở mắt ra thì thấy chú Cáng Tử đang ngồi xổm trước mặt, cười hì hì nhìn hắn. Hắn giật mình ngồi bật dậy, nhìn quanh bốn phía, thấy mình vẫn đang nằm trên chõng sưởi. Đầu óc rối bời, thầm nghĩ: Sao lại thế này? Sao mình lại trở về chõng sưởi rồi? Hai người già trẻ kia đâu mất rồi? Chẳng lẽ mình vừa nằm mơ?
Trần Cáng Tử thấy hắn ngồi đờ ra không nói gì, lại nhéo mạnh vành tai hắn một cái nữa, nói: “Sao thế, Tiểu Thập Tam? Nghĩ gì mà đờ người ra thế? Mau dậy đi, chúng ta phải xuất phát rồi, chậm trễ là cha nhóc sẽ nổi giận đấy!”
Kim Thập Tam bị nhéo đau, kêu “Ai da!” một tiếng, rồi quay sang hỏi Trần Cáng Tử: “Chú Cáng Tử, cháu về từ lúc nào vậy?”
Trần Cáng Tử sững người, vỗ vào sau gáy Kim Thập Tam rồi nói: “Ngủ đến lú lẫn rồi à? Nhóc vẫn nằm ỳ đây không chịu dậy, còn có thể đi đâu được?”
Kim Thập Tam sờ sờ vành tai bị kéo đến đỏ ửng, trong lòng nghĩ: “Xem ra đúng là mình đã nằm mơ. Nhưng giấc mơ này cũng chân thực quá rồi…”
Hắn mặc quần áo, cầm lấy gậy truy bảo rồi đi ra ngoài, thấy mọi người đã thu dọn xong xuôi, chuẩn bị xuất phát. Hắn hơi đỏ mặt, vội vàng đứng vào hàng ngũ. Kim Bất Hoán chẳng buồn nhìn hắn, chỉ lo dặn dò mọi người những điều cần chú ý, rồi theo địa hình và khu vực đã chọn sẵn mà dẫn đầu đoàn đi dò đường.
Lưu Lão Muộn lén nhét hai miếng bánh quy mặn vào tay Kim Thập Tam, nói: “Chưa ăn sáng đúng không? Trên đường nhớ ăn lót dạ, đừng để cha cậu nhìn thấy.”
Kim Thập Tam nhận lấy, ngại ngùng nói: “Xin lỗi chú Lão Muộn, cháu ngủ (người phóng sơn gọi giấc ngủ là “nã giác”) quên mất.”
Lưu Lão Muộn cười cười: “Người trẻ ham ngủ cũng chẳng phải lỗi lầm gì. Chú dậy sớm quen rồi, thấy cháu ngủ say nên không gọi. Nhưng lần sau đừng có dậy muộn nữa, cha cháu là người nghiêm khắc lắm, ai làm lỡ thời gian của ông ấy là bị ăn đòn đấy. Hôm nay là ngày đầu tiên cháu vào rừng, mọi người đã xin giúp cho cháu rồi, nhưng lần sau chưa chắc đã được đâu. Một lát nữa vào rừng thì nhớ để ý, đừng có mà bị lạc đường (người phóng sơn gọi bị lạc đường trong rừng là “mạt đát sơn”) đấy nhé. Rừng ở đây rậm lắm, khi chú “gõ côn” thì nhớ đáp lại nhé.”
Kim Thập Tam gật đầu. Hắn biết quy tắc của người dò đường, vào rừng không được tùy tiện hô hoán, vì sợ làm kinh động lợn rừng, dã thú, càng sợ làm cây nhân sâm sợ mà trốn mất. Nhưng rừng quá rậm, đôi khi không nhìn thấy bóng dáng nhau, để giữ nhịp độ của nhóm cũng như tránh lạc người, họ dùng cách lấy gậy khóa bảo gõ vào thân cây để liên lạc, gọi là “gõ côn”. Gõ một tiếng, từng người lần lượt gõ đáp lại, vừa để báo vị trí của mình, vừa để báo hiệu bình an, sau đó tiếp tục đi tìm kiếm.
Mọi người theo thứ tự đã sắp xếp từ hôm qua mà tiến vào rừng. Khu rừng này quá rộng, cũng quá rậm rạp, mấy người vừa vào đã như hạt kê rơi xuống hố cát, lập tức bị nuốt chửng bởi cây cối um tùm. Kim Thập Tam nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong lòng vẫn còn sợ hãi. May mắn là bên trái hắn có chú Nhá Mại, bên phải có chú Lão Muộn, họ thỉnh thoảng lại “gõ côn” để liên lạc với hắn, khiến hắn yên tâm hơn nhiều.
Hắn làm theo lời cha dạy, chăm chú nhìn xuống mặt đất mà tìm kiếm. Nghĩ rằng sẽ nhanh chóng phát hiện được nhân sâm, nhưng đi suốt cả buổi sáng, chân mỏi nhừ, mu bàn tay cũng bị cành cây cào xước vài vết, mà ngay cả một cây “Đăng Đài Tử” cũng chẳng thấy đâu.
Đến trưa, Kim Bất Hoán “gõ côn” gọi mọi người tập hợp, thông báo tình hình rồi nghỉ ngơi ăn lương khô uống nước. Hồ Nhá Mại thấy Kim Thập Tam trông ủ rũ, liền cười hỏi: “Tiểu Thập Tam, sao mà mặt mày xị ra thế? Sáng nay thấy nhóc hăng hái lắm mà! Giờ sao trông như cà tím bị đông đá thế?”
Kim Thập Tam lẩm bẩm: “Đi cả buổi sáng rồi, đến một cọng rễ nhân sâm cũng chẳng thấy. Nếu muốn tìm được một gốc “Nhị Tầng Lâu”, chắc phải đợi đến năm Thân, tháng Ngọ mất!”
Kim Bất Hoán trừng mắt nhìn hắn một cái, quát: “Con tưởng đào nhân sâm dễ lắm à? Đừng nói chỉ một buổi sáng, mười ngày nửa tháng không “khai nhãn” (ám chỉ việc phát hiện ra cây nhân sâm đầu tiên) cũng là chuyện bình thường! Nếu không chịu nổi thì tốt nhất về nhà uống sữa đi, đừng có theo ta vào rừng nữa! Ông đây không chịu nổi mất mặt đâu!” Một tràng mắng làm Kim Thập Tam đỏ bừng mặt, không dám hé răng.
Hồ Nhá Mại vội vàng hòa giải: “Thôi nào thôi nào, Tiểu Thập Tam còn nhỏ mà! Lại là lần đầu tiên vào rừng, chưa quen cũng là bình thường, một thời gian rồi sẽ khá hơn thôi. Đứa trẻ này thông minh lanh lợi, sau này chắc chắn sẽ kế nghiệp huynh, trở thành một lãnh đạo giỏi giang.”
Kim Bất Hoán hừ một tiếng, nói: “Muốn trở thành một lãnh đạo giỏi, không phải chỉ dựa vào chút thông minh vặt vãnh. Trước hết phải chịu được khổ, vượt qua được thử thách! Bát cơm mà Sơn Thần ban cho, không dễ mà ăn đâu!”
Ông không thèm để ý đến Kim Thập Tam nữa, châm tẩu thuốc, ngồi xổm xuống rít mấy hơi.
Một lát sau, ông gõ tẩu, đổ tro thuốc xuống đất rồi dùng chân nghiền nát, sau đó quay sang nói với Triệu Nhị Lư: “Nhị Lư, địa mạch chỗ này không giống với sườn núi phía Tây hay phía Bắc, mà là thế Hàng Long. Hai bên núi non trùng điệp, thế núi sừng sững hiểm trở; ở giữa có cửa gió hẹp, càng đi vào trong càng rộng, như bước vào đại điện triều đình, giương cờ kéo ngựa. Thế đất này dễ tụ phong tích khí, hôm qua khi quan sát địa hình ta đã có cảm giác này. Vì vậy ta đoán rằng, càng xa cửa gió, càng gần khí nhãn, thì khả năng tìm thấy bổng chùy lớn càng cao.
Khu rừng ta đang đứng này tuy cách cửa gió khá xa, nhưng vẫn chưa phải nơi có khí nhãn. Sườn nam núi Trường Bạch quá rộng, bán kính phải đến vài chục dặm, nếu cứ tìm từng mảng một, e rằng đến mùa thu dọn rừng cũng chưa chắc đã tìm được “Nhị Tầng Lâu”. Nhưng chỉ cần xác định được vị trí khí nhãn, phạm vi tìm kiếm của ta sẽ thu nhỏ lại rất nhiều.”
Triệu Nhị Lư là trợ thủ đắc lực số một của Kim Bất Hoán, nhiều năm theo ông đi đặt bẫy săn nhân sâm, nên cũng có chút hiểu biết về địa thế núi rừng. Hắn gật đầu nói: “Bá đầu, huynh nói không sai, nơi này quả thực có thế Hàng Long. Chỉ có điều, huyệt nhãn rốt cuộc nằm ở đâu?”
Kim Bất Hoán lắc đầu nói: “Giờ ta cũng chưa rõ. Cứ tiếp tục tìm kiếm nhân sâm đã, để ta từ từ suy nghĩ.”
Ông đứng dậy, gọi mọi người tiếp tục đi dò đường.
Kim Thập Tam đi thêm hơn một canh giờ nữa, hai chân càng lúc càng mỏi nhừ, mắt cũng đau nhức vì phải chăm chú tìm kiếm dấu vết trên mặt đất. Hắn mệt mỏi quơ cây gậy bới đất một cách vô thức, bỗng nhiên mắt sáng rỡ, hét to một tiếng: “Nhân sâm!”
Theo quy tắc săn nhân sâm, nếu nhìn thấy nhân sâm thì phải lập tức hô to, gọi là “gọi núi”. Thứ nhất là để nhanh chóng báo hiệu cho đồng đội đến tập hợp; Thứ hai, tương truyền rằng tiếng hô này có thể giữ chặt linh hồn của cây nhân sâm, khiến nó không thể lặng lẽ biến mất.
Kim Thập Tam vừa hô lên, Kim Bất Hoán ở cách hắn hơn chục mét lập tức hỏi: “Loại mấy lá?” Đây gọi là “tiếp sơn”, sau khi có người “hô sơn”, người đó phải lập tức báo cáo cây nhân sâm có bao nhiêu lá. Nhưng mọi người đợi một lúc lâu vẫn không nghe thấy Kim Thập Tam trả lời, bèn tò mò chạy lại xem. Chỉ thấy Kim Thập Tam đứng đờ ra đó, mặt đỏ bừng, không nói một lời.
Lý Đại Hào Tử ghé mắt nhìn, lập tức hiểu ra, cười hì hì nói: “Tiểu Thập Tam bị “giả sâm” rồi!” Theo quy tắc săn nhân sâm, nếu hô lên nhưng phát hiện ra đó không phải nhân sâm, thì gọi là “giả sâm”. Người hô “giả sâm”, nếu nhẹ thì phải lập tức quỳ xuống trước thần núi để tạ lỗi; nếu nặng thì bị buộc phải quay về lán trại, không được tiếp tục theo đoàn tìm nhân sâm.
Lưu Lão Muộn lại nói: “Cây mà Thập Tam hô tuy không thể tính là nhân sâm, nhưng cũng là một cây “Nhị Giác Tử”, không thể nói là giả sâm được.”
Triệu Nhị Lư cũng nói với Kim Bất Hoán: “Đúng vậy, bá đầu, “Nhị Giác Tử” tuy không đáng giá, cũng không thể đào, nhưng dù sao lần này chúng ta cũng đến rừng nguyên sinh, mà Thập Tam lại là lần đầu tiên đi săn nhân sâm. Ngay ngày đầu đã tìm thấy một cây “Nhị Giác Tử”, cũng là một điềm lành. Theo tôi, Thập Tam nên thắp hương dập đầu, tạ ơn thần núi mới phải.”
Kim Bất Hoán hừ một tiếng, không nói thêm gì. Lưu Lão Muộn vội lấy một nén hương từ trong tay nải ra, đốt lên rồi cắm xuống đất, giục Kim Thập Tam mau chóng quỳ lạy.
Lúc này, Kim Thập Tam mới hiểu ra, săn nhân sâm không phải chuyện dễ dàng, còn tưởng có thể ung dung tìm được một cây lớn thì đúng là si tâm vọng tưởng. Sau đó, hắn không dám than mệt, cũng không dám lơ là nữa, mở to mắt chăm chú tìm kiếm. Nhưng đến khi mặt trời lặn, hắn vẫn chẳng tìm thấy cây nhân sâm nào. Không chỉ riêng hắn, mà cả đội ngày hôm đó cũng hoàn toàn trắng tay. Kim Bất Hoán dẫn mọi người quay về lán trại. Tối đến, khi nằm ngủ, Kim Thập Tam nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong lòng vẫn còn sợ hãi, bèn vo hai nắm cỏ khô, nhét vào tai.
Suốt gần một tháng sau, mọi người rời lán từ sáng sớm, tối mịt mới trở về, đã lùng sục khắp khu rừng rộng cả trăm mẫu trước mặt. Đừng nói đến loại “Nhị Tầng Lâu”, ngay cả một cây nhân sâm ra hồn cũng chẳng tìm thấy. Thế là họ chuyển đến khu rừng phía Đông, sát vách mỏ ưng, tiếp tục dò đường. Lán trại cũ cách quá xa, đi đi về về bất tiện, nên bị bỏ hoang. Mọi người lại dựng mấy căn lán mới dưới chân vách mỏ ưng.
Đây là lần đầu tiên Kim Thập Tam ở lại chốn rừng núi hoang vu lâu đến vậy, ngày ngày ăn gió nằm sương, vất vả bôn ba. Đang vào độ giao mùa, tiết lạnh đã qua mà nóng bức chưa tới, thời tiết trong núi thay đổi thất thường. Dù từ nhỏ hắn đã theo Kim Bất Hoán luyện Mai Hoa Quyền, rèn luyện thân thể dẻo dai, nhưng làm sao có thể so được với đám lão sơn nhân vốn đã quen chịu đựng gió sương? Chẳng mấy chốc, hắn ngã bệnh, suốt mấy ngày liền đầu nóng sốt, cơ thể nặng nề, chỉ đành nằm lại trong lán nghỉ ngơi. Loại phong hàn này, trong mắt dân săn nhân sâm chẳng phải chuyện to tát, cũng có cách chữa trị. Trong núi, thảo dược chẳng thiếu thứ gì, hái về sắc thuốc cho hắn uống, dần dần bệnh tình thuyên giảm.
Hôm ấy, Kim Thập Tam cảm thấy đầu bớt nóng, cơ thể cũng nhẹ nhõm hơn, bèn khoác áo ra ngoài lán phơi nắng.
Lúc này trời đã gần trưa, cha hắn sớm đã dẫn mọi người vào rừng, bên ngoài chẳng còn ai. Núi vắng lặng, chỉ có tiếng chim hót, côn trùng rả rích bầu bạn với hắn. Hắn đi quanh lán mấy vòng, dần cảm thấy chán, bỗng nhiên mũi ngứa ran, không nhịn được hắt hơi một cái thật to. Đột nhiên, bụi rậm trước mặt xao động, rồi một con thú nhỏ màu vàng lao ra, vểnh cặp sừng cong nhọn, nhắm thẳng vào hắn mà húc tới!
Kim Thập Tam giật mình, tuy chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng mấy năm luyện võ vẫn còn tác dụng. Hắn lập tức sử chiêu “Yến Tử Hồi Tường”, nhanh chóng né sang một bên. Không đợi con thú quay đầu lại, hắn vớ lấy một hòn đá lớn, ném mạnh khiến nó loạng choạng. Con thú đau điếng, lập tức xoay người bỏ chạy. Kim Thập Tam lúc này mới nhìn rõ, thì ra là một con dê rừng, nặng cỡ bốn, năm chục cân. Trong đầu hắn đột nhiên nảy lên một suy nghĩ, nếu bắt được con dê núi này, cả nhóm sẽ được ăn ngon và bữa! Mấy ngày nay toàn ăn thịt khô, lương khô, đến mức miệng nhạt nhẽo chẳng có vị gì, giờ có một món ngon tự động đưa đến cửa, sao hắn có thể bỏ qua?
Kim Thập Tam đuổi theo phía sau, con dê hoảng loạn chạy thẳng về hướng vách mỏ ưng. Hắn mừng rỡ, vách đá ấy cheo leo hiểm trở, con dê này tự chui vào đường chết, không còn lối thoát! Nhưng hắn không biết rằng, đây là một con sơn dương, loài vật giỏi leo trèo bậc nhất. Khi đến chân vách, con dê chỉ nhảy ba bước đã leo lên được mấy mét. Kim Thập Tam nghĩ đến cái chân dê nướng bên ngoài giòn tan, bên trong mềm mọng, dầu mỡ chảy ròng ròng, liền nuốt nước miếng đánh ực, nghiến răng bám tay chân leo theo.
Một người một dê truy đuổi nhau, chẳng mấy chốc đã leo lên độ cao hơn mười trượng. Kim Thập Tam mấy lần suýt nắm được chân sau con dê, nhưng đều bị nó né thoát. Con dê vòng ra sau một tảng đá lớn, hắn lập tức đuổi theo, nhưng con vật đã biến mất không thấy tung tích. Hắn lần theo khe núi chật hẹp sau tảng đá, lại vòng qua một vách núi khác, rồi bỗng sững sờ trước cảnh tượng trước mắt. Trên một bệ đá trước vách núi, một con rắn dài cuộn tròn. Con rắn ấy to bằng miệng bát, dài chừng hai trượng, lưng phủ vảy xám sắt xen lẫn những vệt đỏ sậm. Đầu nó to cỡ nắm đấm người lớn, nhưng lại dẹt như hình bàn xẻng. Điều kỳ dị nhất là trên đỉnh đầu nó mọc một dãy u thịt màu đỏ máu, gồ ghề nhấp nhô, nhìn vừa ghê tởm vừa sởn tóc gáy.
Những người vào rừng săn sâm, hái thuốc, đốn gỗ, đãi vàng hay săn bắn đều gọi nó là “Thần Long”. Ai vô tình chạm mặt nó cũng đều lập tức tránh xa, về đến lán còn phải đốt hương lạy vái, xin được tha thứ vì đã quấy nhiễu. Nhưng một con lớn như trước mắt hắn thì đúng là chưa từng nghe nói đến! Thông thường, loài rắn độc hiếm khi có thân hình to lớn, trừ loài hổ mang chúa ở phương Nam. Bởi lẽ chúng săn mồi cỡ nhỏ, vũ khí chết người là nọc độc, không như trăn phải dựa vào sức mạnh cơ thể để quấn chặt con mồi to xác. Thực tế, ngay cả hổ mang chúa khổng lồ ở phương Nam cũng chủ yếu ăn thằn lằn, rắn khác hoặc các loài thú nhỏ. Nhưng “Thần Long” ở núi Trường Bạch thì chẳng chừa con mồi nào. Miệng nó ngoài cặp răng nanh tiêm nọc, còn mọc đầy răng cưa sắc nhọn. Gặp con mồi nhỏ, nó nuốt chửng ngay; gặp con to, nó sẽ phun độc khí làm ngạt, rồi dùng hàm răng sắc bén xé xác để nuốt từng miếng.
Lúc này, “Thần Long” không có thời gian để ý đến Kim Thập Tam vì nó đang đánh nhau với một con chim.
Con chim này chỉ to bằng một con chim ác là, đầu tròn và đuôi ngắn. Lông của nó màu nâu xám, nhưng đầu thì màu vàng. Chuyển động của nó nhanh hơn nhiều so với các loài chim thông thường. Nó bay lên bay xuống xung quanh “Thần Long”, thỉnh thoảng dùng mỏ mổ vào nó, rồi lập tức bay đi. Nhưng “Thần Long” phòng thủ rất chặt chẽ, cho dù thỉnh thoảng bị mổ, cũng không để ý vì thân hình to lớn, dạ dày.
Thấy không thể phá vỡ vòng phòng thủ của “Thần Long”, con chim đổi chiến thuật, bắt đầu bay vòng quanh đầu đang duỗi thẳng của “Thần Long. Đầu rồng cũng quay theo đường bay của con chim. Nó mở miệng định cắn con chim nhiều lần, nhưng con chim đã tránh được trong gang tấc.
Kim Thập Tam chăm chú nhìn cảnh tượng ngoạn mục của cuộc chiến dữ dội giữa con rắn và con chim, máu trong người sôi lên. Anh ta không biết tại sao con chim lại sẵn sàng liều mạng để chiến đấu với con “Thần Long” hung dữ này. Có thể con rắn đã ăn thịt con của nó, hoặc có thể con rắn đã phá hủy tổ của nó. Nhưng khoảng cách sức mạnh giữa loài chim này và “Thần Long” là quá lớn. Nếu chúng ta cứ tiếp tục chiến đấu như thế này, có lẽ chúng ta sẽ bị rắn cắn.
Sau khi con chim bay vòng quanh “Thần Long hàng chục lần, chuyển động của “Thần Long” dần trở nên chậm chạp và không thể theo kịp tốc độ của con chim. Thấy tình hình không ổn, “Thần Long” đột nhiên phun ra những đám sương độc màu hồng nhạt từ trong miệng. Con chim có vẻ rất sợ hãi, vỗ cánh và bay cao, rồi biến mất khỏi tầm mắt chỉ trong chớp mắt. “Thần Long” nhân cơ hội này duỗi người và luồn lách dọc theo vách núi để chuồn đi.
Đột nhiên, một bóng đen màu vàng lao xuống với tốc độ đáng kinh ngạc và mổ vào mắt “Thần Long”. Kim Thập Tam reo lên phấn khích, hắn không ngờ một con chim nhỏ như vậy lại có thể dùng thủ đoạn tinh vi như vậy. Nhưng đột nhiên hắn không dám kêu to, chỉ thấy “Thần Long” đau đớn, cái đuôi đột nhiên như tia chớp quét tới, đánh trúng con chim đầu vàng, lập tức đánh bay nó đi.
“Thần Long” bị mổ mù một mắt, đau đớn lăn lộn quằn quại trên mặt đất. Con chim nhỏ đầu vàng dường như cũng bị thương, vỗ cánh mấy cái nhưng không bay lên được. Chẳng bao lâu, “Thần Long” ngừng giãy giụa, thè lưỡi dài đen kịt, hung ác lao về phía con chim nhỏ.
Kim Thập Tam thầm kêu không ổn, máu nóng xộc thẳng lên đầu, không kịp suy nghĩ nhiều, bước nhanh tới, túm lấy đuôi rắn kéo mạnh ra sau. Nhưng hắn không biết cách bắt rắn, phải chế ngự đầu nó, đánh vào bảy tấc. Việc túm lấy đuôi rắn này ngược lại đã tạo cơ hội tốt nhất cho nó tấn công. “Thần Long” đang định nuốt chửng con chim đầu vàng, đột nhiên bị túm đuôi, liền lập tức xoay người, lao tới cắn vào chân Kim Thập Tam. May mà hắn phản ứng nhanh, vội buông đuôi rắn, lùi nhanh về sau.
Nhưng không ngờ con rắn trông có vẻ thô kệch, lại có thể dựng đầu lên, đoạn giữa uốn cong, bật lên như lò xo, phóng về phía mặt hắn. Kim Thập Tam chưa từng thấy con rắn nào có cách tấn công như vậy, trong lúc nguy cấp liền ngửa người ra sau, đầu rắn sượt qua trước mặt hắn, một luồng gió tanh nồng xộc đến, khiến hắn buồn nôn. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, hắn không kịp suy nghĩ, theo phản xạ đưa tay siết chặt cổ “Thần Long”.
Một người một rắn vật lộn trên mặt đất, lăn lộn mấy vòng. Con rắn đã quấn chặt cơ thể quanh người Kim Thập Tam, bắt đầu sử dụng chiêu chí mạng, siết chặt. Hắn lập tức cảm thấy khó thở, xương cốt toàn thân kêu răng rắc. Nhưng hắn không dám buông tay, bởi vì một khi buông ra, “Thần Long” chắc chắn sẽ vươn đầu cắn hắn. Hắn gắng sức siết mạnh, muốn bẻ gãy cổ “Thần Long”, nhưng rõ ràng lực siết của con rắn mạnh hơn rất nhiều, khiến mặt hắn tím tái, hơi thở yếu dần. Từ miệng rắn liên tục phun ra làn khói độc, mùi tanh hôi xộc vào mũi khiến hắn hoa mắt, tai ù, sức lực trên tay cũng dần mất đi. Hắn thầm than hôm nay mình chết chắc rồi, bỗng nhiên cảm thấy lực siết trên người lỏng đi một chút. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy con chim nhỏ đầu vàng đã gắng sức bay lên, mổ mạnh vào con mắt còn lại của “Thần Long”.
Kim Thập Tam nhân cơ hội này, thả một tay ra, đưa xuống thắt lưng, rút con dao găm mang theo bên mình, nhằm thẳng vào u nhọt máu trên đỉnh đầu “Thần Long” mà đâm xuống, ghim chặt đầu rắn xuống đất. Thân rắn mềm oặt xuống, quằn quại một chút rồi bất động.
Kim Thập Tam kiệt sức, duỗi thẳng người nằm bất động trên mặt đất, miệng thở d ốc. Con chim nhỏ đầu vàng tiến sát lại mặt hắn, dùng mỏ cọ cọ vào người hắn, dường như đang tỏ lòng biết ơn. Kim Thập Tam nằm một lúc lâu, dần dần hồi phục chút sức lực, nhưng đầu óc ngày càng choáng váng, trong bụng cũng buồn nôn dữ dội. Hắn biết mình đã hít phải luồng khói độc mà “Thần Long” phun ra, đây chính là triệu chứng trúng độc. Con chim nhỏ đầu vàng cất tiếng kêu “chiếp chiếp”, nhìn hắn, rồi dùng mỏ mổ vào bụng của “Thần Long”, sau đó lại nhìn hắn, rồi lại tiếp tục mổ vào bụng con rắn. Kim Thập Tam chợt bừng tỉnh, có lẽ con chim này đang ra hiệu rằng trong bụng “Thần Long” có thứ gì đó.
Hắn gắng gượng chống lại cơn choáng váng khó chịu, bò dậy, lật ngửa bụng trắng bệch của con rắn lên, dùng dao găm rạch một đường từ cổ xuống bụng. Một bụng đầy dịch nhầy lập tức tràn ra ngoài. Hắn lục tìm một lúc, bỗng có một viên ngọc to bằng quả trứng chim bồ câu lăn ra từ trong bụng rắn. Chưa từng thấy vật này bao giờ, hắn không khỏi kinh ngạc.
Hắn nhặt viên ngọc lên, lấy áo lau sạch, rồi tỉ mỉ quan sát. Viên ngọc có màu trắng, trên bề mặt ẩn hiện những tia máu, khi bóp thử thì thấy chất liệu khá cứng rắn. Hắn đưa lên mũi ngửi nhưng không thấy có mùi gì đặc biệt, bèn thử nếm một chút, chỉ cảm thấy vị hơi đắng.
Đột nhiên, một cơn buồn nôn mãnh liệt trào lên trong bụng hắn. Hắn không kìm được, há miệng nôn thốc nôn tháo, dường như muốn ói ra cả dịch dạ dày lẫn mật. Mãi mới ngừng nôn, hắn ngồi phịch xuống đất, mệt lử, nhưng bất chợt nhận ra cảm giác choáng váng trong đầu đã hoàn toàn biến mất, thậm chí còn thấy đầu óc tỉnh táo, tinh thần sảng khoái hơn.
Hắn ngạc nhiên nhìn viên ngọc trong tay, thầm nghĩ, chẳng lẽ thứ này có tác dụng giải độc? Chỉ mới li3m một chút mà đã loại bỏ hoàn toàn triệu chứng trúng độc của mình!
Thấy hắn vẫn ổn, chú chim đầu vàng nhỏ bé kêu “chiếp chiếp” thêm vài tiếng nữa rồi bay lên, lượn một vòng trên đầu hắn rồi bay đi mất.
Kim Thập Tam cất viên châu vào túi hộ thân đeo sát người, liếc nhìn xác con rắn trên mặt đất, rồi rạch lấy mật rắn, nuốt sống trong tình trạng còn đầm đìa máu tươi. Những ngày qua hắn bị bệnh, sáng nay thức dậy cũng chẳng ăn được bao nhiêu, hôm nay lại vất vả cả ngày, vừa rồi còn nôn sạch cả chút đồ ăn ít ỏi trong bụng.
Lúc này, một viên mật rắn trôi xuống dạ dày, lập tức khơi dậy cơn đói cồn cào, khiến hắn cảm giác như có thể gặm cả đá mà ăn. Trên người hắn không mang theo chút lương khô nào, trên vách núi này cũng chẳng có quả dại nào để hái ăn. Nhưng chuyện đói bụng này càng nghĩ càng thấy đói. Hắn thầm nghĩ, ở vách mỏ ưng dựng đứng hiểm trở, trèo lên đã khó, leo xuống còn khó hơn. Vừa rồi dốc hết sức giết rắn, tay chân giờ đã bủn rủn, nếu không ăn chút gì để hồi phục thể lực, thì dù thế nào cũng chẳng thể xuống nổi vách núi này.
Hắn quay vòng vòng như ruồi mất đầu, nhưng chẳng tìm được thứ gì có thể ăn. Đột nhiên, hắn vỗ trán, thầm nghĩ mình đúng là ngốc, con “Thần Long” này chẳng phải chính là đồ ăn sao! Hắn chưa từng ăn thịt rắn, người vùng Quan Đông cũng không có thói quen đó. Nhưng hắn từng nghe cha kể rằng người miền Nam ăn rắn, thịt rắn không có độc, thậm chí còn rất ngon khi hầm súp hoặc nướng lên. Thế nhưng, hắn không mang theo lửa, chẳng thể nướng rắn được.
Cơn đói trong bụng ngày càng dữ dội, hắn nghiến răng một cái, cắt phăng đầu rắn bằng dao găm, rồi chộp lấy thân rắn mà cắn. Nhưng thịt rắn sống tanh nồng, lại chẳng có dầu, muối, gia vị gì để điều hòa, ăn sống sao mà nuốt nổi? Vừa cắn một miếng, hắn đã buồn nôn. Thế nhưng, máu rắn chảy vào miệng lại có vị mặn, mùi tanh cũng không quá nồng. Hắn bèn nhắm mắt, ngửa đầu, cố gắng hứng lấy từng giọt máu mà nuốt xuống. Vừa uống được vài ngụm, đột nhiên hắn cảm thấy một luồng hơi ấm bốc lên trong bụng, ngày càng lan rộng và trở nên nóng bỏng.
Dòng nhiệt này lan tỏa khắp cơ thể, khiến hắn cảm thấy toàn thân thông suốt, khoan khoái không nói nên lời. Đôi tay, đôi chân vốn đã rã rời, không chỉ phục hồi lại sức lực mà còn tràn đầy sinh lực, đến mức hắn có cảm giác mình có thể đấm chết một con ngựa chỉ bằng một cú đấm!
Kim Thập Tam không ngờ máu rắn lại có hiệu quả như vậy, hắn nuốt từng ngụm lớn, cho đến khi máu trên người rắn chảy hết ra ngoài.
Con “Thần Long” này nặng ít nhất 40kg, sau khi lột da và nướng, có thể ăn trong nhiều ngày. Kim Thập Tam quấn xác rắn quanh người rồi đi xuống núi theo đường đã lên. Sau khi uống máu rắn, anh cảm thấy tràn đầy năng lượng, cơ thể nhẹ nhõm lạ thường, trèo xuống vách đá còn dễ hơn trèo lên.
Về đến lán trại thì trời cũng đã tối. Cha và các chú, các bác đều đã quay về, không thấy Kim Thập Tam, khi mọi người đang lo lắng, không biết hắn đã đi đâu, có khi nào bị lạc đường rồi không. Bọn họ vốn đang thương lượng sẽ vào rừng tìm kiếm, thì thấy hắn bình an vô sự mà quay về, mọi người liền thở phào nhẹ nhõm, càng ngạc nhiên hơn khi thấy trên người hắn có một cái xác rắn to.
Tuy rằng xác rắn không có đầu, nhưng khi Triệu Nhị Lư lật xác rắn lên, liền nhận ra đây là một con “Thần Long” trên núi Trường Bạch. Con “Thần Long” này to như vậy, hắn còn chưa thấy qua, cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ. Hắn kinh ngạc mà hỏi Kim Thập Tam cái xác rắn này ở đâu ra, Kim Thập Tam liền kể lại cho mọi người nghe việc bản thân nhìn thấy trận đánh nhau của một con chim và một con rắn, cùng với việc hắn giúp đỡ con chim gi3t chết “Thần Long”.
Mọi người nghe đến mặt tròn mắt dẹt. Trần Cáng Tử vô vai Kim Thập Tam, nói: “Tiểu Thập Tam giỏi đấy! Người ta đều nói “Thần Long” là sứ giả tuần núi, người nào gặp phải đều không chạy kịp, nhóc con này ấy thế mà dám tiến lên, lại còn giết được nó. Giỏi lắm, rất ra dáng đàn ông!” Trần Côn Tử cũng cười nói: “Không tồi, không tồi, Trần Côn Tử tôi cũng phải bái phục sự gan dạ này! Tương lai chắc chắn sẽ thành một ba đầu tốt.”
Kim Bất Hoán mỉm cười nói: “Được rồi, được rồi, hai anh em các con quen thói ganh đua dũng mãnh, đừng có khen nó mãi vì chuyện này nữa.” Ông hỏi kỹ Kim Thập Tam về hình dáng của con chim kia, trầm ngâm nói: “Xem ra, đó chính là một con “Kim Phượng Hoàng” rồi!”
Kim Thập Tam trợn tròn mắt, hỏi: “Cha, cha nói con chim đó chính là một con chim gõ kiến mào vàng sao ạ?”
Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Loài chim gõ kiến mào vàng này cực kỳ hiếm gặp, hơn nữa còn rất linh tính. Hễ nơi nào có nó xuất hiện, chắc chắn trong khu rừng đó sẽ có một cây bổng chùy lớn ra đời. Xem ra, chúng ta đến sườn nam này là không sai rồi.”
Mọi người đã lang thang ở sườn nam núi Trường Bạch gần một tháng trời, ngoài mấy cây “Đăng Đài Tử” chẳng đáng giá, có thể nói là tay trắng trở về. Ai nấy đều không khỏi chán nản, thậm chí còn hoài nghi liệu nơi này có thực sự xuất hiện bổng chùy lớn hay không. Giờ nghe nói gần đây có “Kim Phượng Hoàng” xuất hiện, tinh thần cả nhóm lập tức phấn chấn hẳn lên.
Người Quan Đông không ăn thịt rắn, huống hồ thứ mà Kim Thập Tam mang về lại chính là một con “Thần Long”. Sau khi bàn bạc, mọi người quyết định đào một cái hố chôn xác rắn. Chú Lão Muộn còn đặc biệt đốt ba nén hương, quỳ xuống vái mấy cái trước mộ rắn. Kim Thập Tam thấy vậy, liền không dám nhắc đến chuyện mình đã nuốt mật rắn, uống máu rắn, thậm chí còn giấu đi một viên “Thần Long Châu”.
Chớp mắt đã hơn nửa tháng trôi qua, giờ đã là đầu hạ, thời điểm khí hậu dễ chịu nhất ở núi Trường Bạch. Rừng núi trùng điệp một màu xanh biếc, các loại cây như tùng Trương Tử, thông rụng lá, bạch dương, dương liễu, vân sam, cây đoan… mọc đan xen, cành lá um tùm. Thú rừng cũng xuất hiện nhiều hơn, nào là nai ngựa, tuần lộc, chồn zibelin, vịt trời, hoẵng, sơn dương, lợn rừng, thỏ tuyết… Thêm vào đó, nấm tai mèo, nấm tùng nhung và các loại nấm dại khác cũng mọc đầy. Nhờ sự hào phóng của thiên nhiên, Kim Bất Hoán và mọi người không còn phải lo lắng về thức ăn nữa.
Tuy nhiên, ngoài một gốc nhân sâm bốn lá miễn cưỡng coi là tạm được, thì họ vẫn gần như tay trắng. Mùa này, núi Trường Bạch thường có sương mù dày đặc, cộng thêm địa hình sườn nam trập trùng đồi núi, vô số khe sâu và hẻm núi chia cắt, khiến việc đi lại dễ bị lạc đường, càng làm cho việc tìm dược liệu thêm phần gian nan.
Hôm ấy, khu vực mà họ tìm kiếm đã tiến vào khu vực của dãy núi Thiên Nga. Kim Bất Hoán đứng trên sườn núi, quan sát địa hình xung quanh, rồi phấn khởi nói với Triệu Nhị Lư: “Nhị Lư, ngươi nhìn xem chỗ này, núi non bao bọc, sau cao trước thấp, rừng cây ở giữa lại không bị ánh nắng xuyên thấu, cũng không bị cuồng phong xâm nhập. Trên đỉnh còn có một dòng thác đổ xuống, dãy núi này chạy dài như rồng phun nước. Đây chính là vùng đất âm, e rằng khí nhãn cũng nằm ở đây.”
Ông xem xét kỹ các loại cây trong rừng, thấy chủ yếu là cây đoan, lại bốc một nắm đất lên bóp thử. Đất sét dẻo, mịn, màu nâu đen, bên trong lẫn cả cành lá mục nát. Kim Bất Hoán hài lòng gật đầu: “Không sai được, trong khu rừng này nhất định sẽ có bổng chùy lớn! Cả cây “Nhị Tầng Lâu” kia, tám phần cũng ẩn trong đây.”
Triệu Nhị Lư nói: “Bá đầu nói đúng! “Ba chẽn năm lá, lưng hướng dương, mặt hướng âm, muốn tìm đến ta, hãy kiếm cây đoan.” Chỗ này quả thực là nơi bổng chùy thích mọc nhất!”
Mọi người nghe vậy đều mừng rỡ. Kim Bất Hoán lập tức dặn Hồ Nhá Mại dẫn theo một người quay về dời trại, đem lương thực, dụng cụ ở khu cắm trại ở khe núi mười lăm dời sang đây, rồi dựng lán tạm trong rừng. Hồ Nhá Mại còn chưa kịp đáp lời, bỗng nghe Trần Cáng Tử quát lớn: “Ai đó?! Mẹ kiếp, cút ra đây cho ông!”
☆ Chú thích:
1. 五帝钱聚,山神临世 – Ngũ Đế Tiền tụ, Sơn Thần lâm thế. Trong đó:
– 五帝钱 (Tiền Ngũ Đế): Là năm đồng tiền cổ của năm vị hoàng đế thời thịnh vượng nhất của nhà Thanh (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh). Chúng thường được dùng trong phong thủy để trừ tà, chiêu tài lộc.
– 聚 (Tụ): Tập hợp, hội tụ lại.
– 山神 (Sơn Thần): Thần cai quản núi rừng theo tín ngưỡng dân gian.
– 临世 (Lâm Thế): Giáng xuống trần gian, xuất thế.
=> Ý nghĩa: Khi tiền Ngũ Đế hội tụ, Sơn Thần sẽ xuất thế.