Thực thế, đội quân tình báo ăn mày đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Nổi bật là cuộc khởi nghĩa của quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh, những người ăn xin có thể đi lại khắp nơi mà giặc chẳng nghi ngờ, lợi thế của những người hành khất là càng dơ dáy, cùi hủi ghẻ lở thì lại càng được việc, họ có thể một gậy, một bị khắp nơi tung hoành, liều mạng cùi xông bừa vào chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát và la cà khắp nơi để chuyển tin nhanh chóng mà an toàn. Hệ thống tình báo của đội quân ăn mày hoạt động đắc lực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho dân tộc Việt.
Cao Ngạo đáp: “Tiểu nhân sẽ gấp rút thành lập ngay ba đội ngũ này để không làm lỡ đại sự của cậu chủ. Còn bao lâu nữa thì ngày đó sẽ đến vậy cậu chủ?”
Lý Hạo cười lạnh: “Cũng sắp rồi, nhanh thì hai tháng, chậm thì ba tháng. Còn phụ thuộc vào kết quả của những hội kia.”
Cao Ngạo gật đầu: “Tiểu nhân đã rõ.”
“Về chuyện anh em đi làm ăn, thu phí có xảy ra sơ sót gì không? Nhớ đừng có đụng đến các cơ sở kinh doanh của hai nhà Tô, Trần. Bọn chúng mà để ý đến chúng ta thì khó mà mở rộng thế lực ngầm được.” Lý Hạo gặng hỏi.
“Tiểu nhân đã ghi nhớ lời cậu chủ và dặn dò kỹ càng anh em. Cũng có một số trường hợp bị dồn bắt, nhưng không vấn đề gì. Chúng ta đã thực hiện quản lý theo chế độ phân cấp theo các chi khác nhau nên những thành viên ngoại vi kia cũng không thể khai được gì nhiều. Họ chỉ biết được có những thành viên quan trọng ở trong bóng tối ra lệnh chỉ đạo mà thôi. Ngoài ra nhờ có quan phủ thuộc phe cánh chúng ta ám trợ nên các phi vụ thường thường làm ăn trót lọt. Ờ... có một tên Trưởng Giáp, gọi là Huỳnh Vẹn, đã giúp anh em trong hội thoát hiểm nhiều lần, tiểu nhân đã từng tiếp xúc với gã này, tuy tính cách có phần gian xảo nhưng rất được việc.” Cao Ngạo trả lời.
“Hà hà, xem ra việc thu phục vu vơ một gã Trưởng Giáp nhỏ nhoi lại có ích như vậy, ta sẽ xem xét thăng quan cho hắn để hắn có thêm nhiều chỗ mà thi thố tài năng.” Lý Hạo phì cười.
Lúc mọi người đang say hương men say thịt chó thì có tiếng xôn xao ở góc cầu thang lên lầu. Ai cũng ngoảnh nhìn những kẻ mới đến, có tầm ba chục người chia ra ngồi ở ba bàn. Có một bàn toàn những kẻ mặc áo phú quý và có nhiều điểm khác biệt với người Việt. Khi những kẻ đó xí xô xí xào nói chuyện, chúng nhân liền nhíu mày biết ngay xuất xứ của chúng.
Lý Thông siết chặt ly rượu, nốc cạn, phun ra ba từ: “Lũ chó Ngô.”
Người Việt có lệ gọi người phương Bắc là người Ngô. Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có nước Ngô và nước Việt. Lý do khác, trong thời kỳ tam quốc phân tranh, có ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Thời đó, nước Ngô là nước trực tiếp đô hộ dân Việt, nên người Việt thường gọi thành người Ngô. Ngoài ra, có kẻ lại cắt nghĩa rằng bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi. Điển hình cho việc gọi người Trung Quốc là người Ngô, chính là bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỷ mười lăm, sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh.
Những kẻ mới vào quán Kim Cẩu là những kẻ thương nhân người Tống đi nhờ đoàn sứ thần. Tên đứng đầu đám thương nhân này là anh em họ hàng với tên Triệu Khắc Sảng, vì vậy mới được đặc cách đi chung như thế. Bọn chúng nghe nói Đại Việt hiện tại hỗn loạn lắm, phải cậy nhờ bộ đoàn đi sứ để được bình yên sang Đại Việt, thu mua sản vật quý hiếm của Đại Việt, mang về Đại Tống bán với giá cao, kiếm chác lợi lộc.
Trong đám thương nhân có tên đã sang Đại Việt vài lần, nên biết tiếng tăm của quán thịt chó Kim Cẩu. Cả bọn đều có sở thích ăn thịt chó, bên nước Tống cũng có quán thịt chó, nhưng không ngon bằng Đại Việt. Vừa tới kinh thành, gã thương nhân đó đã dẫn đồng bạn tới ngay quán Kim Cẩu để thiết đãi.
Mấy tên người Tống vẫn thản nhiên trò chuyện với nhau bằng tiếng Hán, bọn chúng cho rằng ở cái quán thịt chó bình dân này sẽ không người nào hiểu được bọn chúng nói gì. Nhưng chúng đã lầm, ít ra ở bàn của Lý Hạo có Lý Hạo, Lý Thông, Cao Ngạo và Lưu Hoàng Hiệp hiểu được tiếng Hán.
Gã mặt dài như cái mặt mẹt cười khẩy: “Các ngươi biết gì chưa? Ta nghe nói sứ thần đại nhân của chúng ta hôm nay trên điện chầu rất oai phong. Ngài chỉ đông chỉ tây mà bọn vua quan An Nam không dám hé răng nửa lời.”
Tên mặt chuột cười theo: “Ha ha, không chỉ vậy. Từ vua cho đến đám quan lại An Nam phải lạy Triệu đại nhân như tế sao. Ta tưởng tượng đến cảnh đó thôi đã cảm thấy tức cười muốn vỡ bụng. Ta chẳng hiểu tại sao lũ người man di kia lại thờ phụng cái tờ sắc phong đó đến vậy nhỉ?”
Một gã có khuôn mặt xanh xao như tàu lá chuối khịt mũi: “Hừ, bọn chúng dám! Bọn chúng mà dám hó hé một tiếng thì thiên triều Đại Tống ta sẽ dẫn trăm vạn đại quân đi san bằng cái xứ mọi rợ này, đánh cho bọn chúng kêu cha gọi mẹ, khóc lóc xin tha ngay.”
Gã khác có gương mặt vàng vọt như củ nghệ đớp miệng thịt chó, gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, đúng vậy, cái đất nước của dân An Nam ngu muội, làm sao có thể so với nước Tống lớn mạnh chúng ta được? Mà nói gì thì nói, cái món thịt chó của dân An Nam quả là ngon thực.”
Gã mặt dài nốc ly rượu: “Xứ nam man chỉ có mỗi món thịt chó là tàm tạm, còn những món khác sao có thể so với thánh thủ bếp núc của người Tống? Ha ha, mà nói thật với các ngươi, ta có cảm tưởng dân nam man là dân chó nên mới làm ra cái món chó ngon tới vậy.”
Gã mặt xanh xao cười hăng hắc: “Cái ý nghĩ của ngươi thật giống với ý ta. Dân An Nam ăn thịt chó bao năm qua, từ đời này sang đời khác, chắc là chuẩn bị biến thành chó cả lũ hết rồi.”
Lý Hạo ngồi ở cách chỗ bọn người Tống mấy bàn, nghe tới đây thì không chịu đựng được nữa, nắm chặt nắm đấm, tiếng xương ngón tay kêu răng rắc. Nhỏ giọng bàn bạc với mấy người còn lại đoạn Lý Hạo cười lớn, nói bằng tiếng Hán: “Ha ha ha ha, các huynh đệ có biết chúng ta ra đời phải biết điều gì không?”
Mấy tên người Tống nghe có người nói lớn tiếng Hán ở chỗ này, rất ngạc nhiên, đồng loạt quay sang nhìn.
Lý Thông liếc nhìn đám người Tống, sau đó hỏi Lý Hạo bằng tiếng Hán: “Phải biết điều gì vậy cậu chủ?”
“Ngươi không biết sao? Thực là kém cỏi, chúng ta ra đời cần phải biết hòa nhã, ân cần với những người xung quanh, đặc biệt là những vị khách đến từ phương xa.” Lý Hạo vỗ ngực tiếp lời.
Cao mW7ta Ngạo hỏi tiếp: “Điều đó tiểu nhân biết, chúng ta trước giờ đều thế cơ mà.”
Lý Hạo lắc đầu ngón tay: “Vậy không được, ngươi nói thế chứng tỏ ngươi chỉ biết một mà không biết hai. Chúng ta phải có chọn lọc, có những nơi chúng ta chỉ cần đối xử thường thường thôi, nhưng có nơi chúng ta phải đối đãi như thượng khách.”
Lưu Hoàng Hiệp ngạc nhiên: “Ồ, lại có chuyện đó sao? Thế những nơi nào ta đối xử bình thường, nơi nào chúng ta phải đối đãi như thượng khách?”
Lý Hạo vênh mặt: “Thiệt tình ta không biết phải nói sao với các ngươi nữa. Đến ngay cả chuyện này cũng cần ta giảng giải. Cho các ngươi đi theo ta lăn lộn, thực là thất bại, quá thất bại đó mà. Những kẻ ở nước ngoài cần đối xử thường thường là những nước nhỏ yếu bên cạnh như Chiêm Thành, Chân Lạp, Ai Lao, Đại Lý. Nhưng các ngươi phải ghi nhớ, duy chỉ có những vị thượng khách đến từ Đại Tống là chúng ta phải đối xử hoàn toàn khác mà thôi.”
Ba người kia gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, luôn miệng bảo: “Thì ra vậy, thì ra vậy.”
Lý Hạo vỗ bàn: “Tuy nhiên... ta có một điểm nhỏ phải lưu ý các ngươi tới mấy tên đến từ nước Tống, bởi vì bọn chúng không phải là người, mà bọn chúng là chó, mấy con chó Ngô, một lũ súc vật không hơn không kém.”
Đến lúc này thì cả đám người Lý Hạo cùng vỗ bàn kêu gào, hô hét, cười như điên như dại.
Gã mặt dài tức giận, đứng phắt dậy, chỉ tay về phía bàn Lý Hạo ngồi, quát: “Lũ man mọi kia, các ngươi là ai? Dám sỉ nhục người Đại Tống chúng ta?”
Lý Hạo đứng dậy đối diện với gã mặt dài, chắp tay: “Ồ, thì ra là người Đại Tống đó sao? Ta có mắt không tròng, không nhìn thấy núi Thái Sơn. Ta xin chào thượng khách đến từ Đại Tống. Ta đi không đổi tên, ngồi không đổi họ, Đoàn Tự Khánh.”
Gã mặt dài soi mói Lý Hạo từ trên xuống dưới: “Đoàn Tự Khánh, một cái tên ngu ngốc của dân tộc nhược tiểu. Ta không cần biết ngươi là ai? Không cần biết ngươi là con cháu của bọn cường hào, ác bá hay quan lại triều đình? Ngươi đã dám thốt lời nhục mạ người Đại Tống, ngươi mau dập đầu tạ tội, ta sẽ tha cho cái mạng nhỏ của ngươi.”
Lý Hạo quay sang nhìn đám người Lý Thông, thể hiện sự khó hiểu: “Cái gì mà nhục mạ, ta vừa mới chửi bọn chúng sao?”
Lý Thông hỏi: “Có ai nghe thấy gì không? Ai vừa chửi cái gì hả?”
Cao Ngạo trả lời: “Làm gì có, ta chẳng nghe thấy ai chửi gì ở đây cả. Này, mấy tên kia các ngươi có nghe thấy ai chửi gì không?”
Cả đám lắc đầu quầy quậy, ngẩn ngơ hỏi nhau một cách vô tội.
Lưu Hoàng Hiệp đế thêm: “Nghe ai đó chửi người thì ta không nghe. Bất quá ta phải đính chính là nãy giờ trong quán có tiếng chó sủa ở đâu đó, nhưng ta tìm mãi không ra mấy con chó đang sủa bậy ở cái góc xó xỉnh nào.”
Lý Hạo nhìn gã mặt dài, khinh khỉnh bảo: “Ngó tới ngó lui các ngươi đâu có chỗ nào giống con người, mặt mũi tay chân giống như cóc nhái, mồm miệng lại toàn sủa ra những câu thối tha. Ta đã chửi các ngươi tới như vậy mà các ngươi gọi là nhục mạ người Đại Tống thì đúng là các ngươi ngu quá, phải sửa lại là miệt thị súc vật mới chính xác.”
Gã mặt vàng nổi khí xung thiên: “Tên mọi rợ kia, nếu ngươi còn buông lời ô uế, nhục mạ những người thanh lịch, tao nhã như chúng ta, thì đừng trách chúng ta không biết lễ nghĩa.”
Lý Hạo giật nảy người: “Ô kìa, chúng nổi giận rồi kìa, ta sợ quá, ta sợ quá đi thôi. Ta sợ nhất là những người tự cho mình là thanh lịch, tao nhã. Người Tống các ngươi quả biết cách hù dọa ta.”
Gã mặt xanh xao hô: “Không cần nói nhiều với mấy tên ngu muội đó nữa, cái dân thân lừa ưa nặng này phải đánh đòn đau chúng nó mới tỉnh người ra.”
Gã mặt dài gầm lớn: “Lũ khốn kiếp, lão tử sẽ cho các ngươi biết tay lão tử. Tất cả các ngươi... xông lên, đập gãy chân chó bọn chúng cho ta.”
Lý Hạo cười ha hả: “Ha ha ha, ta cũng đang ngứa tay lắm rồi, từ sáng đến giờ chưa có chỗ phát tiết, đem các ngươi ra làm bị bông cũng tốt. Trả lại cho các ngươi câu cuối đây. Lên anh em, đập gãy chân chó bọn chúng cho ta.”
Thâm Không Bỉ Ngạn tác phẩm mới của Thần Đông, khởi đầu rất ổn, hệ thống mới lạ